Đây là bản tường thuật duy nhất của thánh sử Máccô về biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. Bài tường thuật ngắn gọn nhất nhưng lại tóm tắt tất cả các cuộc hiện ra. Thánh sử Máccô nói rõ rằng, các môn đệ không tin Chúa sống lại qua những người đã gặp Chúa kể lại, mà các ngài chỉ tin khi chính các ngài tận mắt chứng kiến Chúa Giêsu hiện đến với mình. Từ đó, các ngài nhận lệnh truyền ra đi rao giảng minh chứng về những điều mắt thấy tai nghe và lòng cảm nhận về Đấng Phục Sinh.
Tin Mừng hôm nay là một tóm kết về những lần hiện ra của Chúa Giêsu khi Ngài sống lại. Thánh Marcô nhấn mạnh đến sự cứng lòng tin của các môn đệ để làm nổi bật chứng từ của Chúa Giêsu hiện ra và mệnh lệnh phải ra đi làm chứng cho Ðấng Phục Sinh. Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn mãi mãi là một, nhưng khi hiện ra, Ngài luôn đến với hình dạng của một người xa lạ.
Với bà Maria Madalena, Ngài hiện ra như một người làm vườn; với hai môn đệ đi về làng Emmaus, Ngài đồng hành như một lữ khách xa lạ; với các môn đệ chài lưới, Ngài xuất hiện như một người mà họ cũng không nhận ra ngay tức khắc. Niềm tin vào Ðấng Phục Sinh luôn đòi hỏi các môn đệ phải làm một bước nhảy vọt để từ một người xa lạ, nhận ra dung mạo của Thầy mình. Từ hai ngàn năm qua, chứng từ về Ðấng Phục Sinh cũng luôn diễn ra như thế, từ cuộc sống của cộng đồng tín hữu tiên khởi, qua cái chết của các vị tông đồ đến cuộc tử đạo, của không biết bao nhiêu các tín hữu ở mọi thời đại, cuộc sống tin cậy mến ở mọi nơi là một chứng từ sống động và liên lỉ về Ðấng Phục Sinh.
Niềm tin vào Ðấng PhụcSinh và chứng từ về Ngài luôn được diễn tả bằng một cách sống mới trong cộng đồng. Sách Tông Ðồ Công Vụ ghi lại một bức tranh vô cùng sống động về cuộc sống mới trong Ðấng Phục Sinh ấy. Sự bình an được Ðấng ban tặng đã tạo ra một cộng đồng hòa giải, nghĩa là một nhóm tín hữu sống trong hài hòa hiệp nhất và chia sẻ của cải cho nhau. Nét nổi bật của cộng đồng này không hẳn là nghèo khó, bởi vì trong đó, không ai phải thiếu thốn điều gì, mà chính là tình yêu thương của mọi người. Của cải vật chất, thay vì là đối tượng của sự chiếm hữu ích kỷ và do đó là nguyên nhân của tranh chấp chia rẽ, đã trở thành bí tích của tình bạn và huynh đệ. Tựu trung, mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu tuyên bố khi hiện ra với thánh Tomas "Phúc cho những ai không thấy mà tin" không loại trừ đòi hỏi phải được thấy một cách cụ thể chứng từ về Ðấng Phục Sinh trong Giáo Hội, và chứng từ ấy thiết yếu là chứng từ về tình yêu huynh đệ.
Tin vào Chúa Phục Sinh không phải tin rồi ngồi đó, mà là phải đem Tin Mừng ấy đến cho tha nhân, như trong bài Tin Mừng hôm nay nói lên điều đó. Sau khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu bảo các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15).
Niềm tin vào sự Phục Sinh chỉ thật chắc chắn và mạnh mẽ khi chúng ta gặp được chính Đấng Phục Sinh, chứ không phải chỉ nghe nói hay qua những tin đồn. Đây cũng là điều giúp chúng ta phân định đâu là thật đâu là giả về những thứ mặc khải ngày hôm nay được tuyên truyền nhan nhản khắp nơi: Nếu mặc khải nào cho thấy Chúa Giêsu trong Thánh Kinh, trong các bí tích và theo hướng dẫn của Giáo Hội được Chúa Giêsu ủy thác thì tin, còn những tin đồn không qua huấn quyền Giáo Hội thì nên tránh xa. Tuy nhiên, không ít trong chúng ta lại dễ bị những thứ lạ lẫm kia mê hoặc.
Trong tư cách Đấng Phục sinh, Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng toàn thể định mệnh của Người đã được Thiên Chúa muốn như thế, và Người giúp các ông hiểu ý nghĩa của Kinh Thánh, như Người đã làm cho hai môn đệ Emmau. Cái chết của Người trên thập giá và cuộc phục sinh của Người cũng đã làm trọn nội dung sau này phải được loan báo cho mọi dân tộc. Nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là trong chứng từ về Người, khởi đi từ tất cả những gì đã được biểu lộ xuyên qua công trình và toàn thể cuộc tiến bước của Người cho đến thập giá và sự sống lại, muôn dân sẽ được loan báo sự hoán cải và sự tha thứ tội lỗi. Mọi người phải quay trở lại với Thiên Chúa, Đấng đã nhờ cuộc sống, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu mà chứng tỏ tình yêu và quyền lực của Người. Rồi Đấng Phục Sinh biến các môn đệ trở thành chứng nhân của Người. Họ sẽ phải làm chứng về các biến cố trong cuộc đời của Người cũng như cuộc gặp gỡ với Người đây và việc Người trở về trời (x. Cv 1,21t).
Nhiều người đương thời chúng ta vẫn coi Đức Giêsu Phục Sinh chỉ là một bóng ma, một thứ gì đó thay vì là một Đấng, là một huyền thoại thay vì là một Con Người đang sống. Theo họ, Đức Kitô cùng lắm chỉ là một điển hình cho nhân loại, cống hiến cho mọi người một giáo lý và những gương sống đáng phục…, nhưng bây giờ Người không còn sống nữa, Người chẳng “ngự bên hữu Chúa Cha” trên trời, cũng chẳng hiện diện trong hình bánh hình rượu đã truyền phép… Trách nhiệm của các Kitô hữu là làm chứng bằng đời sống và lời nói rằng Người thật sự vẫn là Người Sống.
Đức Kitô chết trên thập giá đã thật sự sống lại, bằng xương bằng thịt. Sự kinh hồn bạt vía và ngờ vực của các tông đồ lại hữu ích cho chúng ta: chính thái độ khó tin đó của các ông lại là một đảm bảo cho tính vững chắc của đức tin chúng ta. Đức tin của chúng ta không dựa trên chứng tá của những con người dễ tin, dễ bị ảnh hưởng từ bên ngoài. Đức tin của chúng ta dựa trên những con người thực tế, đòi hỏi những dấu chỉ và bằng chứng. Chứng tá của các ông càng mạnh mẽ do chỗ là chứng tá không phải của một thái độ dễ tin theo chuyện mê tín nhưng là một sự cứng tin đã thắng vượt nhờ óc phê bình.
Chính sự cứng lòng tin của các Tông Đồ và môn đệ mà đức tin của chúng ta được củng cố chắc chắn hơn: Các tông đồ và môn đệ Chúa Giêsu không dễ gì tin vào việc Thầy đã phục sinh, dứt khoát không dựa vào tin đồn, chỉ khi đã được gặp chính Thầy bằng xương bằng thịt, được chính Thầy mở trí cho hiểu Thánh Kinh rồi các ông mới tin, từ đó các ông xả thân rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng chết để minh chứng niềm tin đó. Chính vì vậy, có thể nói được rằng, điều đáng trách về sự cứng lòng của các Tông Đồ và môn đệ Chúa Giêsu trước khi gặp Thầy sống lại và sự xả thân đổ máu làm chứng cho Đấng Phục Sinh là bằng chứng củng cố cho đức tin của chúng ta ngày hôm nay vào sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô.
Niềm vui Phục Sinh cần được diễn tả bằng đời sống chứng nhân, ánh sáng Phục Sinh phải được chiếu tỏa ra cho muôn dân. Ánh sáng tự nó phải phản chiếu – không có niềm vui Phục Sinh thật nếu không ra đi loan báo Tin Mừng.
Nhận xét
Đăng nhận xét